song
Nhà báo người Việt đầu tiên ở nước Mỹ
Ngày xuất bản: 29/11/2018 12:00:00 SA
Lượt đọc: 56711

 Theo “Bách khoa toàn thư mở Wikipedia” và “Kiến thức”, gần đây sách “Tìm hiểu anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa Việt Nam” do Trương Hạnh Phúc biên soạn, N.X.B Hồng Đức, 2018, trang 304 – 312 cho biết: Có một người Việt Nam đầu tiên sang Mỹ, từng làm cao bồi trong đoàn người tìm vàng ở miền viễn Tây Hoa Kỳ, sau đó trở thành nhà báo người Việt đầu tiên ở nước Mỹ, khi về nước lại trở thành một vị chỉ huy danh tiếng trong cuộc chiến chống thực dân Pháp xâm lược do Võ Duy Dương lãnh đạo tại Đồng Tháp giữa thế kỷ XIX. Đó là ông Trần Trọng Khiêm (1821 - 1866), quê ở làng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi (nay là huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ).

Thuở nhỏ, Trần Trọng Khiêm học ở quê, nổi tiếng hay chữ, nhưng không đi thi. Năm 20 tuổi, ông lập gia đình với người họ Lê cùng làng rồi theo nghề buôn bán gỗ ở Bạch Hạc (Việt Trì) và Phố Hiến (Hưng Yên). Năm 1843, vợ ông Khiêm bị một viên Chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Ông Khiêm trong cơn uất hận đã ra tay giết Chánh tổng, báo thù cho vợ. Sau đó ông phải trốn xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm thủy thủ cho một tàu buôn nước ngoài.

Suốt 12 năm ròng, từ năm 1842 - 1854, Trần Trọng Khiêm lần lượt trải qua Hương Cảng, Anh, Hòa Lan và qua nhiều vùng đất mà chưa người Việt Nam nào từng tới. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu lưu trên đất Hoa Kỳ.

Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, sau khi tới Hoa Kỳ, Trần  Trọng Khiêm cải trang thành một người Hoa và đổi tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm, đào vàng ở miền Tây Hoa Kỳ do một người Canađa tên là Mark làm thủ lĩnh. Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào để mua lương thực và vũ khí. Đoàn có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Từ đó trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp …Ông cũng thường nói với mọi người rằng ông biết tiếng Việt Nam nhưng ở đây không cần dùng đến. Khi đã thân thiện bên nhau, ông nói mình không phải người Hoa nhưng đất nước đang nằm cạnh nước Tàu. Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City. Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến miền Tây tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi quá nửa số thành viên trong đoàn.

Sau khi tích lũy được chút vàng làm vốn liếng, theo “Bách khoa toàn thư mở Wikipedia” kể thì ông chán nản cảnh hỗn độn, trụy lạc và cướp bóc ở nơi ấy, ông tìm đến California, làm công việc chạy tin tự do cho vài tờ báo như tờ Alta Califonia, Morning Post và làm biên tập viên cho tờ nhật báo Daily Evening. Đề tài ông thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai khoáng ở Bắc California và quanh khu vực San Francsico…

Theo tìm hiểu của học giả Nguyễn Hiến Lê, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm và trộm cướp nhưng Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evaning. Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evaning hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết cuộc gặp gỡ giữa Lê Kim và vị tướng Hoa Kỳ John A.Sutter. Tướng Sutter vốn là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ. Sau khi bị lật đổ, tướng Sutter bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, không ai đoái hoài đến. Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hờ hững, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược lại với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.

Năm 1854, nhân một chuyến tàu sang Hương Cảng, ông xin theo, nhập tịch Trung Quốc, rồi trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Vì vẫn bị truy nã nên ông không trở về quê nhà Phú Thọ mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường (Nam Kỳ). Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Tại đây ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương (lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ của ông là làng Xuân Lũng). Trong bức thư bằng chữ Nôm gửi về cho người anh  trai ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình 12 năm phiêu bạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp tại Định Tường.

Năm 1864, quân Pháp đã đánh chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, sau đó lần lượt mở các cuộc tấn công ba tỉnh miền Tây còn lại. Để ngăn cản quân xâm lược, Trần Trọng Khiêm (Lê Kim) đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình tình nguyện theo thủ lĩnh Võ Duy Dương (1827 - 1866) mộ quân chống lại, mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Ông được giao chỉ huy một đội quân, đã đụng độ với quân Pháp nhiều trận ở Mỹ Trà (nay thuộc thành phố Cao Lãnh) , Cao Lãnh, Cái Bè, Cai Lậy. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp ông cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Quới khiến cho quân giặc điêu đứng.

Năm 1866, trong một đợt truy quét của thực dân Pháp do tướng De Lagrandiere chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim cũng tuẫn tiết theo đồng đội. Năm ấy ông mới 45 tuổi. Sau đó thi hài ông được nghĩa quân chôn cất tại Gò Tháp (nay thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp). Theo “Gia phả nhà họ Lê” do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ thì trước khi mất, ông căn dặn vợ lánh qua Rạch Giá, gắng sức nuôi dạy con, đồng thời căn dặn các con sau này luôn giữ gìn đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng tham vàng bỏ ngãi….

Như vậy Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) không chỉ là người Việt đầu tiên đặt chân lên đất Hoa Kỳ, người Việt đầu tiên và duy nhất trở thành cao bồi miền Tây, người Việt đầu tiên là nhà báo trên đất Hoa Kỳ mà còn là một trong những nhà yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược giữa thế kỷ 19. Dù cuộc khởi nghĩa của ông không thành công, nhưng cũng “thành nhân” như lời của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học sau này đã nói.

Cuộc đời sinh động và bi hùng của ông được hai nhà văn Pháp - Việt hư cấu nghệ thuật trong hai tiểu thuyết có nhan đề là : “La rúeevers I,or” (Đổ xô đi tìm vàng)“Con đường thiên lý”.

Cảm phục tấm gương “vì nước quên thân” của ông, có người làm đôi câu khắc trên mộ ông:

Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh

Chính khí nêu cao, tinh thần Hùng Nhị còn truyền hậu thế.

Ghi công ông, hiện nay ở phường Long Bình, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm.

Hoàng Việt Quân (sưu tầm và biên soạn)    

Du lịch Mù Cang Chải Ruộng Bậc Thang, Mù Cang Chải